Lịch sử sự cố
- Hơn 600 ứng viên đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2024
- Môn tự chọn không bắt buộc, trường xếp TKB đừng để thành “miễn cưỡng tự nguyện”
- Khi được ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm, ĐH Vinh sẽ thu hút nhiều SV tài năng
- Làm gì để giảm thiểu dạy thêm, học thêm “vô tội vạ”?
- Tuyển sinh vào 10: Đề xuất thi tuyển kết hợp xét tuyển học bạ
Trong một số văn bản như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học thường đề cập đến đạo đức của nhà giáo, thường chỉ yêu cầu phẩm chất đạo đức tốt. Nhưng để đánh giá phẩm chất đạo đức tốt đẹp như thế nào thì dường như chưa có quy định đánh giá.
Bạn đang xem: Quy định đạo đức nghề nghiệp nhà giáo ở dự thảo Luật Nhà giáo còn nhiều hạn chế
Một số thông tư quy định về đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo như Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với giảng viên đại học công lập; Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT quy định chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông nhưng còn khá chung chung.
So với Quyết định 16/2008/QD-BGDDT quy định về chuẩn mực đạo đức đối với nhà giáo thì Quyết định này khá chi tiết, mặc dù về mặt hình thức không bao gồm từ “nghề nghiệp”. Còn nhớ Thông tư 01, 02, 03, 04 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về quy chuẩn, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp… thì Bộ đã sửa đổi và gộp lại thành một quy định về chuẩn mực đạo đức đối với các chức danh của từng cấp học giống nhau. Điều này cho thấy người biên tập chưa thật kỹ lưỡng trong việc phân loại đạo đức nghề nghiệp của giáo viên theo quy trình phát triển nghề nghiệp.
Ảnh minh họa: La Tiên
Dự thảo Luật Nhà giáo cũng đề cập đến chuẩn mực đạo đức tại khoản 13, Điều 5: “Đạo đức nhà giáo là chuẩn mực về nhận thức, thái độ, hành vi trong mối quan hệ giữa người giáo viên với người học”. đồng nghiệp, gia đình người học và cộng đồng” và “Đạo đức nhà giáo được thể hiện qua những quy tắc ứng xử của nhà giáo trong khi thi hành nhiệm vụ và trong các quan hệ xã hội, phù hợp với hoạt động nghề nghiệp và được công khai để người dân giám sát việc tuân thủ” (Điều 13). Phải chăng đạo đức chỉ giới hạn ở việc giải thích những khái niệm hoặc định nghĩa đó?
Xác định quan niệm, chuẩn mực đạo đức nhà giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ nhà giáo không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có phẩm chất đạo đức đáng trân trọng. Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục trong bối cảnh hiện đại và ngày càng khắt khe. Tuy nhiên, quan niệm đạo đức nêu trên tuy khái quát và toàn diện nhưng vẫn còn những hạn chế cần được phân tích kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác, hiệu quả khi áp dụng vào thực tế.
Xem thêm : Hà Nội phát động đẩy mạnh thi đua xây dựng Trường học hạnh phúc
Một số lợi thế
Nhìn một cách khách quan, quan niệm trên thể hiện những giá trị cơ bản của đạo đức nhà giáo. Khái niệm này bao trùm nhiều khía cạnh quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên, từ nhận thức, thái độ đến hành vi và được đặt trong mối quan hệ với nhiều chủ thể khác nhau như người học, đồng nghiệp, gia đình người học và cộng đồng. Điều này giúp nhấn mạnh vai trò của người thầy không chỉ giới hạn trong lớp học mà còn mở rộng ra toàn xã hội, tạo ảnh hưởng tích cực đến môi trường giáo dục và cộng đồng.
Ngoài ra, khái niệm này giúp hình thành các chuẩn mực đạo đức mà giáo viên cần tuân thủ trong các mối quan hệ nghề nghiệp, giúp giáo viên hiểu rõ các yêu cầu đạo đức cơ bản khi tương tác với người học và đồng nghiệp. từ đó xây dựng một môi trường giáo dục thân thiện, đáng tin cậy. Đồng thời, đề cao các mối quan hệ xã hội và vai trò của người thầy trong việc xây dựng cộng đồng học tập lành mạnh giúp củng cố hình ảnh cao đẹp của nghề dạy học, góp phần nâng cao uy tín, danh tiếng của nghề dạy học. vị thế của người giáo viên trong xã hội.
Tuy nhiên, khái niệm đạo đức nhà giáo trong dự thảo Luật Nhà giáo không thể tránh khỏi 4 hạn chế sau đây.
Thứ nhất, chưa đề cập đến những giá trị cốt lõi cụ thể của đạo đức nhà giáo khi chỉ tập trung vào nhận thức, thái độ, hành vi mà không đề cập đến những phẩm chất đặc thù của đạo đức nhà giáo như sự tận tâm, tinh thần trách nhiệm cao, khả năng làm gương và truyền cảm hứng cho người học. Điều này làm giảm sức nặng của khái niệm và không phân biệt rõ ràng giữa đạo đức giáo viên và đạo đức nghề nghiệp nói chung ở các ngành nghề khác.
Thực tế cho thấy, người giáo viên ở cấp tiểu học không chỉ cần truyền đạt kiến thức mà còn phải kiên nhẫn, bao dung, sẵn sàng hỗ trợ học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý, học tập. Trong khi đó, một giáo viên ở trình độ đại học cần có tính chuyên nghiệp, trung thực trong nghiên cứu và liêm chính trong học thuật. Nếu chuẩn mực đạo đức chỉ tập trung vào “thái độ, hành vi” mà không đề cao những đặc điểm như “làm gương, trách nhiệm và cống hiến” sẽ khiến giáo viên tiểu học dễ bỏ qua những yếu tố cần thiết này. , dẫn đến chưa thể xây dựng được môi trường giáo dục nhân văn.
Thứ hai, dự thảo quy định về đạo đức chưa phản ánh đầy đủ các yêu cầu cụ thể đối với từng cấp học. Mỗi cấp học từ mầm non, tiểu học đến trung học phổ thông và đại học đều có những yêu cầu khác nhau về vai trò, trách nhiệm của người giáo viên. Quan niệm chung chưa đủ để phản ánh sự khác biệt này, khiến cho việc đánh giá, quản lý và phát triển phẩm chất đạo đức của nhà giáo ở mỗi cấp học kém chính xác và hiệu quả.
Xem thêm : Học sinh THPT Yên Hòa đóng 1,8 triệu đi trải nghiệm: Nhiều băn khoăn cần làm rõ
Ví dụ, là giáo viên mầm non, bạn cần đặc biệt chú ý đến sự an toàn và phát triển cảm xúc của trẻ nhỏ. Nếu không có chuẩn mực đạo đức riêng đối với giáo viên mầm non, một giáo viên chỉ tuân thủ những yêu cầu chung thì khó có thể xử lý được các tình huống phát sinh liên quan đến tâm lý trẻ nhỏ.
Thứ ba, hạn chế đáng lưu ý là dự thảo chưa tính đến việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp theo từng giai đoạn công tác của giáo viên. Quan niệm không phân loại đạo đức theo từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp của giáo viên (như mới vào nghề, đang phát triển và có trình độ chuyên môn cao, tương đương với việc phân loại theo 3 cấp độ: giáo viên, giáo viên chính, giáo viên cấp cao). Điều này khiến cho các yêu cầu về đạo đức trở nên lan tỏa, không tập trung và không khuyến khích sự phát triển liên tục của giáo viên theo thời gian.
Một giáo viên mới cần được đánh giá về sự sẵn sàng học hỏi và tinh thần cầu tiến, trong khi một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm cần được đánh giá về khả năng hỗ trợ, lãnh đạo đồng nghiệp. Nếu chỉ áp dụng một tiêu chuẩn chung như “tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp” thì sẽ khó có thể phân biệt giữa giáo viên mới cần học hỏi và giáo viên có kinh nghiệm cần thể hiện vai trò lãnh đạo chuyên nghiệp.
Thứ tư, các chuẩn mực quy định “đồng phục” đạo đức vì chúng áp dụng một bộ chuẩn mực đạo đức chung cho tất cả giáo viên ở các cấp học và không tính đến việc phát triển tính chuyên nghiệp, dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực. sự mong muốn. Chưa phản ánh được đặc điểm riêng của từng cấp học, như giáo viên mầm non cần chú trọng đến sự an toàn và phát triển cảm xúc của trẻ, trong khi giáo viên trung học phải đảm nhận vai trò hướng dẫn tư duy và phát triển. quyền tự chủ của học sinh. Vì vậy, việc áp dụng những tiêu chuẩn giống nhau cho tất cả mọi người sẽ dẫn đến những đánh giá không thực tế và không công bằng.
Việc bình đẳng hóa các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo, giáo viên thạc sĩ, giáo viên cao cấp (cũng như giảng viên, giảng viên thạc sĩ, giảng viên cao cấp) sẽ không thúc đẩy sự phát triển không ngừng của nhà giáo. giáo viên, không thể tạo động lực để giáo viên tự hoàn thiện, nâng cao phẩm chất đạo đức của mình trong từng giai đoạn. Khi không có tiêu chí rõ ràng cho các giai đoạn nghề nghiệp (giáo viên mới, giáo viên đang phát triển, chuyên môn cao), giáo viên dễ rơi vào tình trạng trì trệ, không có mục tiêu cụ thể để phấn đấu trong đào tạo. trưởng thành và chuyên nghiệp hơn. Nói một cách đơn giản, một giáo viên 10 năm kinh nghiệm mà vẫn được đánh giá theo tiêu chuẩn như một giáo viên mới sẽ cảm thấy không có động lực để phát triển hơn nữa, không có lý do để phấn đấu, làm gương để phấn đấu. đạt được vị trí hoặc vai trò cao hơn trong môi trường giáo dục.
Vì những hạn chế nêu trên, tôi cho rằng trong dự thảo Luật Nhà giáo cần có quy định để Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp nhà giáo với phân loại đạo đức theo từng cấp học, có tiêu chuẩn phân loại chuẩn mực đạo đức theo từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp của nhà giáo.
Vấn đề đánh giá đạo đức nghề nghiệp nhà giáo không phải là tiêu chuẩn chung cho mọi cấp học, cũng không phải là quy định đạo đức chung cho mọi giai đoạn phát triển nghề nghiệp nhà giáo. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới đảm bảo được giáo viên có đủ trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và không ngừng đào tạo để đạt trình độ đạo đức tương xứng với phân loại giáo viên (giảng viên). Việc xác định và áp dụng chuẩn mực đạo đức đối với nhà giáo phải căn cứ vào đặc điểm của từng cấp học, phát triển nghề nghiệp chứ không chỉ dừng lại ở hành vi ứng xử của nhà giáo. Quan niệm đạo đức nhà giáo hiện nay trong dự thảo Luật Nhà giáo cần được điều chỉnh để phản ánh đầy đủ đặc điểm, giá trị của nghề dạy học.
TS Hoàng Ngọc Vinh – nguyên Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo).
https://giaoduc.net.vn/quy-dinh-dao-duc-nghe-nghiep-nha-giao-o-du-thao-luat-nha-giao-con-nhieu-han-che-post246132.gd
Nguồn: https://dut.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục