Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã được thực hiện 3 năm ở bậc trung học phổ thông. Hàng năm, vào thời điểm kiểm tra định kỳ, có quá nhiều đề tài “lạ” xuất hiện trên mạng khiến người trong cuộc không khỏi lo lắng cho tập thể, bộ phận đang trên đà triển khai chương trình mới.
- Chương trình và SGK mới có nhiều yếu tố khơi gợi khả năng tự học của học sinh
- Yêu cầu dạy thêm ngoài nhà trường phải đăng ký kinh doanh, thủ tục có khó?
- Học ở lớp và chủ động tự học, một BMSer xuất sắc chinh phục học bổng ASEAN
- Chuyên gia hiến kế phát triển các ngành khoa học cơ bản
- Học sinh sử dụng điện thoại ở trường lợi bất cập hại
Việc lựa chọn tài liệu để thiết kế các bài kiểm tra đánh giá năng lực (kiến thức, kỹ năng) của người học diễn ra trong nhiều buổi đào tạo.
Bạn đang xem: Giáo viên gợi ý 4 tiêu chí “cứng” để chọn ngữ liệu thiết kế đề kiểm tra Ngữ văn
Báo cáo viên chính là tác giả cuốn sách, chuyên gia của Bộ và các giáo viên nòng cốt của Bộ cũng đề cập và thực hiện, nhưng liệu các giáo viên đã quán triệt sâu sắc tinh thần này theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa? Nếu không, cần nghiên cứu để kết luận.
Người viết là giáo viên Ngữ văn muốn chia sẻ với các đồng nghiệp một số điều để việc thiết kế đề thi được an toàn và phù hợp với tinh thần đổi mới.
Việc lựa chọn tài liệu để thiết kế các câu hỏi kiểm tra, đánh giá đòi hỏi sự “công phu”
Ngữ văn là “xương sống” của chương trình, là “linh hồn” của Văn học. Ngôn ngữ học vừa là phương tiện dạy kỹ năng đọc hiểu, soạn thảo văn bản, vừa là phương tiện kiểm tra, đánh giá khả năng đọc hiểu, viết của người học.
Để đánh giá chính xác, công bằng, khách quan, đề thi phải sử dụng tài liệu hoàn toàn mới, ngoài sách giáo khoa đang dạy; Tránh ghi nhớ máy móc, sao chép văn bản mẫu và mượn lời của người khác; chống lại việc dạy học dựa trên việc đọc và sao chép.
Nếu lấy lại tài liệu trong sách giáo khoa để kiểm tra thì kết quả đánh giá năng lực người học sẽ không chính xác; Hoặc nếu chọn một kho ngữ liệu mới nhưng chưa rõ ràng về thể loại, đặc điểm loại văn bản thì kết quả đánh giá sẽ không có cơ sở tin cậy.
Việc lựa chọn tài liệu ngoài sách giáo khoa đáp ứng yêu cầu theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là một thách thức đối với nhiều giáo viên, bởi đây là chương trình yêu cầu giáo viên phải chủ động trước khi yêu cầu học sinh chủ động.
Một kho ngữ liệu tốt, chuẩn, có khả năng đánh giá năng lực, tố chất của học sinh phải đáp ứng 4 tiêu chí “khó” sau:
Về phong cách và thể loại văn bản: Tài liệu được chọn phải cùng loại văn bản (văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin), thể loại văn bản (thơ, truyện, kịch, hồi ký,…) đã được học và mang tính tiêu biểu, đặc sắc. cho loại văn bản và thể loại đó.
Ví dụ, muốn đánh giá khả năng đọc hiểu văn bản kịch thì phải lấy ngôn ngữ đặc trưng của văn bản kịch làm đối tượng khai thác. Để đánh giá khả năng viết một văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ trữ tình, tập thơ phải là một bài thơ tiêu biểu của thơ trữ tình.
Điều quan trọng khi chọn ngữ liệu là phải chú ý đến những yếu tố đặc trưng của thể loại. Chỉ khi đó mới có thể dễ dàng thiết kế được hệ thống câu hỏi đánh giá mức độ hoàn thành yêu cầu của chương trình.
Về công suất: Tài liệu có độ dài/ngắn phù hợp với thời gian làm bài, đảm bảo học sinh có đủ thời gian để đọc, suy nghĩ và làm bài.
Nếu bài thi sử dụng hai tài liệu riêng biệt cho phần đọc và viết thì dung lượng tối đa cho hai tài liệu là 1.000 từ (đối với bài thi tốt nghiệp tối đa là 1.300 từ).
Nếu chỉ sử dụng một kho ngữ liệu cho hai phần thì dung lượng khoảng 600 đến 1.000 từ (bao gồm chú thích, tiêu đề, tài liệu tham khảo, nguồn gốc, v.v.).
Xem thêm : Dự thảo bật toàn “đèn xanh”, lo dạy thêm học thêm sẽ tràn lan, phức tạp hơn
Ngữ liệu là một đoạn trích chứa vừa đủ thông tin để trả lời một câu hỏi đọc hiểu (ngữ liệu khoảng 600 từ) hoặc để viết một đoạn văn/bài luận (ngữ liệu khoảng 600 từ).
Về nội dung và nghệ thuật: tài liệu ngôn ngữ phải có nội dung giáo dục, bồi dưỡng phù hợp với năng lực nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh; Nghệ thuật độc đáo, chuẩn mực và sáng tạo về mặt ngôn ngữ.
Tài liệu ngôn ngữ phải được bồi dưỡng các phẩm chất như lòng yêu nước, lòng nhân ái, sự chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Không sử dụng tài liệu có chứa từ ngữ xúc phạm hoặc có khả năng gây tổn thương; phân biệt giới tính; hoặc kích động những cảm xúc cực đoan.
Về nguồn trích dẫn: Tài liệu phải có nguồn gốc rõ ràng, được lấy từ nguồn đáng tin cậy như nhà xuất bản uy tín (tên tác giả, tên tài liệu, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang trích dẫn); Nếu lấy từ các website thì các website đó phải được quản lý và kiểm duyệt bởi ít nhất một cơ quan có thẩm quyền (ghi rõ đường dẫn và ngày truy xuất).
Việc lựa chọn tài liệu ngôn ngữ đáp ứng yêu cầu trên đòi hỏi người dạy phải mất nhiều thời gian, đọc nhiều văn bản, sàng lọc, chọn lọc. Tuy nhiên, chương trình đang ở những bước đầu vừa thực hiện, vừa học hỏi, tích lũy kinh nghiệm.
Để đảm bảo an toàn, người lựa chọn tài liệu ngôn ngữ cần thận trọng, tránh lặp lại những hạn chế của một số đề tài Văn học đã bị dư luận chỉ trích.
Theo tinh thần đào tạo và các tài liệu nội bộ do Bộ ban hành, trong các bài kiểm tra (không phải bài thi), tài liệu môn ngữ văn có thể được lựa chọn từ SGK chương trình năm 2006; có thể chọn sách giáo khoa khác với sách đang được dạy; Hoặc có thể chọn trích đoạn khác cùng tác phẩm trong chương trình hiện hành (ví dụ: nếu bạn đã dạy đoạn trích “Trao Tình Yêu” (Truyện Kiều) thì giáo viên có thể chọn đoạn trích khác trong tác phẩm này để kiểm tra khả năng đọc hiểu chữ Nôm. thể loại thơ).
Đây là những tài liệu an toàn, được coi là phương tiện đánh giá chính xác khả năng đọc hiểu của học sinh. Đây là giải pháp tạm thời trong giai đoạn đầu triển khai chương trình năm 2018.
Sắp tới, khi đã có kinh nghiệm chọn tài liệu ngữ văn, chắc chắn giáo viên sẽ chọn những tài liệu hoàn toàn mới, không có trong bộ sách hiện hành hay chương trình năm 2006.
Một số câu hỏi kiểm tra được thảo luận như bài học kinh nghiệm
Người viết xin chia sẻ một số đề thi giữa học kì I của một trường THPT có một số vấn đề đáng lo ngại.
Hình ảnh của một bài kiểm tra.
Theo đó, tài liệu có nội dung phù hợp với chương trình Ngữ văn lớp 11 hiện hành. Tuy nhiên, nhiều giáo viên cho rằng tài liệu quá dài, tràn ra cả hai mặt giấy A4, khiến học sinh cảm thấy choáng ngợp khi đọc, tạo cảm giác nhàm chán.
Theo đánh giá của người viết, dung lượng (bao gồm tiêu đề và chú thích) của kho ngữ liệu vẫn nằm trong phạm vi cho phép (dưới 1.000 từ). Tuy nhiên, đoạn trích quá dài, trong khi câu hỏi chưa khai thác hết nội dung, thông tin nghệ thuật của kho ngữ liệu.
Vì vậy, kho ngữ liệu có thể giảm một nửa tổng số dòng mà vẫn đảm bảo đủ thông tin để trả lời cả sáu câu hỏi. Khi trích sáu tám câu kệ, tốt nhất nên bắt đầu từ câu thứ sáu và kết thúc bằng câu thứ tám; Bạn nên ghi đầy đủ nguồn trích dẫn. Khi có sự “can thiệp” vào văn bản trích dẫn thì viết chữ “Theo”; nên bỏ cụm từ “Trích ngữ cảnh” hoặc bỏ “Tóm tắt đoạn trích”.
Tiếp theo là câu hỏi của một trường THCS ở TP.HCM.
Theo nhiều giáo viên, ngay tựa đề bài thơ đã cho thấy nội dung chưa phù hợp với tâm lý, sinh lý của học sinh lớp 9. Nhận thức của lứa tuổi này chưa nắm bắt được suy nghĩ, cảm xúc của học sinh. Người “già” có thể lệch lạc trong suy nghĩ.
Vì vậy, thông điệp của văn bản không mang tính giáo dục theo hướng tích cực đối với các em học sinh trẻ, hồn nhiên.
Cách ghi nguồn không đảm bảo thông tin đầy đủ, cách viết tên bài thơ không đúng (dùng dấu ngoặc kép hoặc in nghiêng), link website viết không chính xác.
Trang web chứa tài liệu được chọn không có giấy phép xuất bản và được quản lý bởi bất kỳ cơ quan nào nên không an toàn hoặc đáng tin cậy.
Cuối cùng là kỳ thi cấp THCS – THPT trên địa bàn tỉnh.
Ảnh do tác giả cung cấp.
Bài thi dài tối đa 3 trang A4. Format có lỗi nhỏ như tiêu đề có 3 trang nhưng đọc được 2 trang; Cả hai câu trong phần viết đều yêu cầu “viết một bài luận”; Văn bản chú thích chưa được định dạng.
Tài liệu thi đọc hiểu là Văn bản thông tin; Trong khi đó, hai bài đầu lớp 11 của sách Creative Horizons dạy về các thể loại Tiểu luận, Luận văn và Thảo luận; Sách Cảnh Diệu dạy thơ và truyện thơ, thơ Nguyễn Du; Sách Kết nối tri thức và cuộc sống dạy về thể loại Truyện và Thơ trữ tình.
Tài liệu đọc hiểu và chú thích quá dài, chứa quá nhiều thông tin so với nội dung đáp án của câu hỏi, chiếm nhiều thời gian đọc của học sinh, trong khi thời gian làm bài chỉ vỏn vẹn 90 phút. Những chú thích không cần thiết nên bỏ đi để học sinh có thêm thời gian hoàn thành bài.
Tóm lại, Chương trình Ngữ văn (2018) đang trong giai đoạn đầu triển khai, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn khó tránh khỏi, giáo viên cần tìm giải pháp khắc phục những khó khăn đó, không nên hoài nghi.
Đối tượng thực hiện chương trình là những giáo viên có niềm đam mê, nhiệt huyết với sự nghiệp giáo dục chưa đủ mà còn phải linh hoạt, sáng tạo trong quá trình thực hiện.
Phong cách và nội dung của bài viết thể hiện quan điểm, quan điểm của tác giả.
Tâm Trần
https://giaoduc.net.vn/giao-vien-goi-y-4-tieu-chi-cung-de-chon-ngu-lieu-thiet-ke-de-kiem-tra-ngu-van-post246843.gd
Nguồn: https://dut.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục