Theo Báo cáo tổng hợp công tác xã hội hóa kiên cố hóa trường, lớp, nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2013 – 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy:
- Hoàn học phí cho GV tự túc nâng chuẩn: Nguồn lực lấy ở đâu để đảm bảo khả thi?
- Xây dựng đề kiểm tra định kì môn Ngữ văn THCS, THPT giáo viên cần lưu ý gì?
- Nhiều hoạt động ấn tượng kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Giáo dục Hà Nội
- GV sinh năm 1992 là ứng viên PGS trẻ nhất được HĐGS cơ sở đề nghị xét năm 2024
- 5 trường học Hà Nội thí điểm ứng dụng AI trong giảng dạy
2013cả nước có 41.397 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập. Trong đó có 12.131 cơ sở giáo dục mầm non, 15.232 trường tiểu học, 10.844 trường trung học cơ sở, 2.286 trường trung học phổ thông và 904 trường trung học phổ thông với nhiều cấp học.
Bạn đang xem: 10 năm qua kiên cố hóa trường lớp được thay đổi lớn nhờ xã hội hóa
Cả nước có 553.181 phòng học ở các cấp mầm non và trung học phổ thông công lập, số phòng học kiên cố khoảng 364.367 phòng học, đạt tỷ lệ kiên cố hóa 65,9%.
Ghi nhận từ báo cáo, tỷ lệ phòng học kiên cố còn rất thấp, đặc biệt là ở bậc mầm non.
Theo đó, tỷ lệ kiên cố hóa trung bình trên cả nước chỉ đạt 47,7% (khu vực Tây Bắc chỉ khoảng 36,5%, Tây Nguyên 35,4%, Bắc Trung Bộ chỉ khoảng 32,8%).
Ở cấp tiểu học, tỷ lệ kiên cố hóa trung bình cả nước chỉ đạt 61,6% (thấp nhất là vùng Tây Bắc chỉ khoảng 43% và Đồng bằng sông Cửu Long 48,4%).
Đến cuối năm 2023cả nước có gần 628.571 phòng học ở các cấp mầm non và trung học phổ thông công lập (tăng 73.290 phòng học so với năm 2013). Trong đó, số phòng học kiên cố là 545.375 phòng học, đạt tỷ lệ kiên cố hóa 86,6% (tăng 20,7% so với năm 2013).
Theo đó, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân cả nước đạt từ 83% trở lên (theo từng cấp học). Tuy nhiên, các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ kiên cố hoá vẫn thấp hơn mức bình quân chung của cả nước.
Về nhà công vụ giáo viên, theo thời gian, số phòng công vụ giáo viên xây dựng thời kỳ trước đã xuống cấp một phần, hư hỏng đến mức không thể sử dụng được.
Từ năm 2014 đến nay, do nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương còn hạn chế (Trái phiếu Chính phủ là nguồn vốn chính hỗ trợ các địa phương triển khai kiên cố hóa và nhà ở công cộng cho giáo viên) cho ngành giáo dục nên chỉ tập trung ưu tiên cho nhu cầu cấp thiết kiên cố hóa phòng học mà không tập trung đầu tư xây dựng nhà công vụ cho giáo viên.
Theo thống kê đến cuối năm 2023, nhu cầu nhà ở công cộng tại địa phương vẫn còn 10.794 phòng.
Thay đổi lớn nhờ xã hội hóa giáo dục
Xem thêm : Cựu SV kiện NEU đòi bồi thường 36 tỷ: Chuyên gia, luật sư nói việc xưa nay hiếm
Cũng theo báo cáo, giai đoạn 2013 – 2023, nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư xây dựng phòng học, nhà công vụ cho giáo viên là rất lớn, góp phần quan trọng nâng tỷ lệ kiên cố hóa phòng học ở các địa phương.
Cụ thể, số tập thể, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xã hội hóa để kiên cố hóa trường, lớp, nhà công vụ cho giáo viên là khoảng 300 tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Theo đó, số phòng học được đầu tư từ nguồn xã hội hóa trong 10 năm khoảng 36.000; Số phòng công vụ dành cho giáo viên khoảng 1.300 phòng; Tổng số kinh phí xã hội hóa để đầu tư kiên cố, xây dựng phòng học, phòng công vụ cho giáo viên ước khoảng 33.000 tỷ đồng; Tổng diện tích đất sử dụng để đầu tư xây dựng mới, kiên cố hóa phòng học, phòng công vụ cho giáo viên của các địa phương là khoảng 521,9 ha.
Có thể thấy, công tác xã hội hóa giáo dục đang có những bước tiến tích cực với sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Trên cơ sở đó, một số trường mầm non, trung học phổ thông các cấp có yếu tố nước ngoài đã được thành lập, đáp ứng nhu cầu học tập của con em chuyên gia nước ngoài và học sinh Việt Nam.
Nhờ đó, học sinh và giáo viên có cơ hội tiếp cận các chương trình, tài liệu đào tạo tiên tiến và phương pháp giáo dục hiện đại.
Trường mầm non xã Đại Đồng (Yên Bái) được PVFCCo tài trợ phòng học khang trang trị giá 3,5 tỷ đồng. Ảnh: Đào Hiển
Về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, các địa phương đã tích cực lồng ghép các chương trình, dự án của Chính phủ để đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học. học phục vụ chương trình giáo dục mầm non và phổ thông theo chương trình, lộ trình đổi mới sách giáo khoa.
Đến nay, cơ sở vật chất các trường mầm non, trung học phổ thông ở nhiều địa phương đã được cải thiện rõ rệt, đầu tư xây dựng khang trang, đồng bộ hơn, trang thiết bị dạy học được nâng cấp hàng năm.
Đặc biệt, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn đã nhận được nhiều hỗ trợ để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho trẻ em đến trường.
Xem thêm : Trường ĐH Hoà Bình khai giảng năm học mới, chào đón hơn 1.500 tân sinh viên
Ảnh minh họa: Đào Hiển
Thực tế vẫn còn nhiều hạn chế
Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích xã hội hóa giáo dục, đặc biệt là cơ chế ưu đãi về đất đai, miễn thuế, hỗ trợ tài chính nhằm tạo cơ sở pháp lý và hành chính vững chắc. Thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục nhưng phong trào xã hội hóa chưa được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ ở tất cả các địa phương.
Theo đó, công tác tuyên truyền, phát động phong trào xã hội hóa giáo dục hiện nay chưa thực sự hiệu quả, hoạt động tuyên truyền chưa được triển khai đồng bộ dẫn đến nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc đóng góp cho giáo dục còn hạn chế. Đóng góp và đầu tư vào cơ sở giáo dục.
Các chiến dịch kêu gọi sự tham gia của tổ chức, doanh nghiệp thiếu tính sáng tạo, gây khó khăn cho việc huy động nguồn lực. Mặc dù đã có chủ trương, chính sách từ Chính phủ nhưng ở cấp cơ sở việc triển khai vẫn còn chậm và thiếu các giải pháp quyết liệt. Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức tới việc thúc đẩy phong trào xã hội hóa, chưa tạo dựng được chính sách ưu đãi thu hút đầu tư, dẫn đến nguồn lực còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, quy hoạch và phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục còn chưa đồng bộ, còn nhiều trường nhỏ, độc lập nằm rải rác ở các vùng dân cư thưa thớt, gây khó khăn trong quản lý, sử dụng. sử dụng tài nguyên.
Việc phân bổ trường học chưa hợp lý, nhiều nơi duy trì trường học nhỏ, trong khi khu vực đông dân cư thiếu trường học đạt tiêu chuẩn. Nhiều công trình trường học vẫn chưa đạt tiêu chuẩn chất lượng khiến cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, nhất là ở các địa bàn khó khăn.
Mặt khác, một số dự án không đảm bảo tiến độ, chất lượng dẫn đến sử dụng không hiệu quả hoặc phải sửa chữa ngay sau khi đưa vào sử dụng.
Nhìn nhận từ thực tế, một số tổ chức, doanh nghiệp đã tích cực tham gia xã hội hóa ở một số địa phương nhưng chỉ tập trung ở địa bàn mà tổ chức, doanh nghiệp đó đang hoạt động. Các cơ sở giáo dục có điều kiện cơ sở vật chất khó khăn chỉ tập trung ở những vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, ít hoặc không có hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, còn thiếu thông tin, sự kết nối giữa các cơ sở giáo dục với các tổ chức, doanh nghiệp dẫn đến mức độ xã hội hóa ở các địa phương này còn thấp.
ĐÀO HIỀN
https://giaoduc.net.vn/10-nam-qua-kien-co-hoa-truong-lop-duoc-thay-doi-lon-nho-xa-hoi-hoa-post246479.gd
Nguồn: http://dut.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục